SƠ LƯỢC TIỂU
SỬ VŨ CÔNG THỦY TỔ
( 804 - 853
)
Theo các tư liệu nghiên cứu về lịch
sử ḍng họ Vũ- Vơ Việt Nam, vào đời nhà Đường, khoảng đầu thế kỷ thứ 9, có một
vị quan tên Vũ Huy người làng Mă Kỳ, huyện Long Khê, phủ Thường Châu, tỉnh Phúc
Kiến. Sau đó, ông làm sớ dâng lên vua Đường xin nghỉ hưu. Ông Vũ Huy vốn tinh
thông khoa địa lư phong thủy, v́ vậy trên đường đi du ngoạn về phương Nam. Đến ấp
Mạn Nhuế thuộc huyện Thanh Lâm đất Hồng Châu, nay là Thị trấn Nam Sách, huyện
Nam Sách, tỉnh Hải Dương, Ngài thấy một thế đất đẹp ở khu cánh đồng có 98
g̣ đất nhỏ bao quanh một g̣ cao và lớn, tựa như 98 ngôi sao chầu về mặt trời (cửu
thập bát tú triều dương ). Cái g̣ ấy địa phương gọi là Đống Dờm. Theo thuyết địa
lư - phong thủy nếu mộ táng ở đây con cháu sẽ phát về khoa bảng, công danh hiển
hách. Cụ Vũ Huy quay trở về Phúc Kiến đưa hài cốt thân phụ sang táng ở Đống Dờm,
rồi làm nhà ở tạm để trông nom ngôi mộ.
Khi
ấy ở làng Mạn Nhuế có một thôn nữ tên Nguyễn Thị Đức là con nhà nề nếp, tính
t́nh đoan trang phúc hậu. Có lẽ do duyên trời đă định, nên gia đ́nh cô thôn nữ
đă chấp nhận lời cầu hôn của ông Vũ Huy. Được hơn một năm, bà có thai,
ông đưa bà trở về Phúc Kiến.
Mùng Tám tháng Giêng năm Giáp Thân(804) bà sinh con
trai. Ông bà đặt tên con là Vũ Hồn. Ngay từ thuở nhỏ, Ngài rất khôi ngô, tuấn
tú. Vua Đường khen ngợi cho là nhân tài, v́ thơ văn hay, sách lược giỏi,
nên xuống chiếu bổ dụng Tả Thị Lang Bộ Lễ - một chức quan khá trong triều đ́nh
- v́ Bộ Lễ phụ trách lễ nghi, cúng tế và thi cử trong nước. Được 2 năm thăng chức
Đô Đài Ngự Sử.
Năm 841(Tân Dậu) đời Đường Vũ Tông, niên hiệu Hội Xương thứ
nhất, Ngài được cử làm Kinh Lược Sứ thay Hàn Uớc. Trong thời gian ở An Nam,
Ngài Vũ Hồn đă đi kinh lư và xem xét nhiều nơi, đồng thời để tâm chú ư việc t́m
địa điểm tốt v́ Ngài đă muốn chọn quê ngoại để định cư sau này. Ngài đă nhiều lần
về Mạn Nhuế thăm mộ ông nội ở Đống Dờm, sau đó đă đi thăm tất cả các vùng lân cận.
Một lần Ngài đến trang Lạp Trạch huyện Đường An thấy về phía tây thôn ấy có
cánh đồng hoang, cỏ lau rậm rạp, rải rác có những g̣ đống tựa 5 con ngựa, 7
ngôi sao ( ngũ mă tiền triều, thất tinh hậu ứng) hoặc những ao, mà dưới
đáy có doi đất nổi lên như h́nh quả bút, nghiên mực, quyển sách… Theo kiến thức
về địa lư- phong thủy, đấy là một kiểu đất đẹp rất tốt cho hậu thế của Trang Ấp
này.
Sau đó một thời gian, Ngài xin từ quan, Vua Đường chuẩn y.
Ngài liền đưa mẹ sang An Nam định cư ở Lạp Trạch, v́ theo Ngài:“ Người xưa được
một ngày nuôi cha mẹ, dẫu làm đến Tam Công cũng không sướng bằng, ta nay c̣n có
mẹ già, há nên tham giàu sang mà không nghĩ đến hiếu dưỡng hay sao?”
Ngài xây dựng
cơ ngơi cho gia đ́nh, rồi chiêu mộ dân cư ở rải rác các vùng xung quanh về làm
ruộng,khai hoang, giúp đỡ họ tiền bạc để xây dựng nhà cửa.Ngài mở trường dạy học,
bốc thuốc cho dân,lập nên một xóm nhỏ, đặt tên là Khả Mộ trang ( có nghĩa là ấp
Đáng Mến), sau dân cư đông đúc thêm.Đời Trần đổi tên thành thôn Mộ Trạch (nay
là thôn Mộ Trạch, xă Tân Hồng, huyện B́nh Giang, tỉnh Hải Dương) dần dần thành
một thôn ấp có văn hoá, có lễ nghĩa và làm ăn thịnh vượng.
Do công đức to lớn của Ngài, nên dân làng Khả Mộ tôn kính Ngài như
cha mẹ,đă xin với Ngài rằng: “Dinh cơ ngài hiện nay để ở, sau khi Ngài mất, dân
làng sẽ dùng làm miếu để thờ phụng Ngài”. Ngài ưng cho, lại bảo rằng: “ Trang
khu có hậu đạo với ta th́ phải trọng lời di chúc của ta, mà ngàn năm thờ phụng”.
Ngài lại cho thêm năm nén vàng, tậu ruộng ao để cung ứng cho việc tế tự, khỏi
phiền dân đóng góp.
Ngày Rằm tháng Tám năm Canh Ngọ (850) mẹ
Ngài - cụ bà Nguyễn Thị Đức, qua đời Ngài khóc than khôn cùng rồi rước
linh cữu mẹ về táng ở xă Kiệt Đặc, huyện Thanh Lâm ( làng Kiệt Thượng,phường
Văn An, Thị xă Chí Linh, tỉnh Hải Dương ngày
nay).
Năm 853 (Quư Dậu) năm ngài vừa đúng 49 tuổi, ngày mùng
Ba tháng Chạp, ngài đang dạy học, th́ thấy trong người khó chịu, rồi thiếp đi,
không bệnh ǵ mà hoá. Trang dân và gia nhân bèn rước ngài lên xứ Đồng Cạn, một
g̣ đất nhỏ trong cánh đồng phía tây bắc thôn trang để an táng.
Dân làng tôn
Ngài làm Thành Hoàng, mới đầu thờ tại dinh cơ Ngài để lại, về sau làm thêm
đ́nh, miếu thờ cũng để ghi công Ngài vừa là người khai ấp Khả Mộ, vừa là người
dạy dỗ đem học vấn, lễ nghĩa đến cho dân cư trong làng. Đồng thời cũng thờ Ngài
như một ông Tổ đầu tiên của ḍng họ Vũ - Vơ nước Nam. Bốn mùa hương khói không
dứt cho đến ngày nay.
Sau khi Vũ công Thủy Tổ qua đời, đến lượt phu nhân cũng được con cháu an táng
liền kề bên. gọi là “mộ song táng”. V́ vậy, đến nay khu g̣ đất táng di hài Ngài
có tên Mả Thần. Mả Thần được tôn tạo, tu bổ vào năm 1993. Sau đó, có một số
nhà công đức đă mua thêm đất nới rộng và xây dựng mới rất hoành tráng,đường
vào cũng được mở rộng và khánh thành vào đầu năm 2011. Năm 2012 tiếp tục xây
thêm Tháp Bút và Nghiên Mực cùng vườn Tiến sĩ trong quần thể khu lăng mộ
của Thủy tổ Ḍng họ Vũ- Vơ Việt Nam trông vô cùng uy nghi và bền vững để lại
cho đời sau chiêm ngưỡng.
VŨ HỮU
CHÍNH tổng hợp
(Chánh Văn
pḥng HĐDH. Vũ – Vơ phương Nam)
Tháng 01 năm 2013
Ghi chú:
Hiện tại có 2 tượng đồng Vũ công Thủy tổ (mỗi tượng nặng khoảng
500 kg) do 6 gia đ́nh các vị ở Hà Nội: Vơ Văn Hồng, Vũ Khắc Đan, Vũ Duy Bổng, Vũ
Văn Tiền, Vơ Văn Minh và Vũ Thế Trường thành tâm cung tiến cho ḍng họ, được an
vị tại: Miếu thờ Ngài ở làng Mộ Trạch, xă Tân Hồng, huyện B́nh Giang, tỉnh Hải
Dương (Ảnh 1) và “ Từ đường Ḍng họ Vũ-Vơ phương Nam” khu 13, xă Long Đức, huyện
Long Thành, tỉnh Đồng Nai (Ảnh 2). (Xem video đại lễ an vị tượng Thủy Tổ tại
website : www.hovuvo.com ) (Ảnh: Vũ Hữu Chính)